Người Khmer là một dân tộc
có nền văn hóa phát triển đa dạng gắn liền với những tín ngưỡng mang sắc thái
riêng ảnh hưởng đậm nét văn hóa Ấn Độ và Phật giáo. Phật giáo đóng vai trò quan
trọng và có vị trí cao nhất trong mọi lĩnh vực của đời sống người Khmer ở đồng
bằng sông Cửu Long. Đa số, họ là Phật tử của Phật giáo Nam tông, vừa là thành
viên của phum sóc (Kon sóc) vừa là “con Phật” ngay từ lúc họ mới ra đời, gắn
với chùa. Chùa Khmer là một tổng thể kiến trúc đặc trưng của văn hóa Khmer với
mái cao thẳng đứng, hoa văn họa tiết sơn vàng, hệ thống tượng tượng Phật, thần
Kabil Maha Prum, nữ thần đất, hung thần Reahu, tiên nữ, vũ nữ Apsara, chằm,
người chim, vua khỉ Hanuaman, rồng, rắn, linh thú. Chùa là nơi tụng kinh, thực
hiện nghi lễ của Phật giáo, dạy chữ Khmer, lễ hội, truyền bá kinh nghiệm sản
xuất; là nơi gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa vật thể, phi
vật thể độc đáo.
Văn hóa tín ngưỡng của
người Khmer có những giá trị rất đặc biệt, mang bản sắc rất riêng với cưới,
sinh, tang ma…là một chuỗi những nghi lễ khá cầu kì và phức tạp được lưu giữ
qua một số hình thức lễ hội như Tết Chôl Thnăm Thmây, ngày Choôl Sâng-Kran
Thmây, ngày Vônabat, ngày Lơng Sak, Lễ cúng trăng (Oóc Ombóc), Lễ cúng ông bà
(Sen Đôn Ta) và còn có đến gần 30 ngày lễ khác nhau bắt nguồn từ tín ngưỡng dân
gian và Phật giáo như lễ cúng Niết Tà, cúng Arăk, cúng Tổ….
Cách ăn mặc của người Khmer
đặc trưng là chiếc váy “xàm pốt” cho nữ và “xà rông” cho nam. Trong âm nhạc,
người Khmer có dàn nhạc ngũ âm. Ngoài dàn nhạc ngũ âm còn có các nhạc cụ khác:
đôi “chập ngã”; dàn nhạc dây “Plêing Khssè”; sáo trúc (Khloy); sân khấu Rôbăm,
Yukê, múa Ram Vong, Lâm Leev, Saravan; Aday, Chhay Yam, hát ru con; sân khấu Rô
Băm và Dù Kê…
Người Khmer ĐBSCL ăn cơm tẻ
và cơm nếp với các món ăn như xôi, bánh tét, bánh chưng, bánh chuối, bánh ú,
làm rượu. Món đặc sản là bún nước lèo. Bún dẻo sợi nhỏ, khô, chan với nước lèo
cá quả tán nhỏ cùng các loại gia vị, rau hành. Ngoài ra, họ thường phơi các
loại cá ăn dần và chế thành nhiều loại mắm từ cá như bhóc. Mắm bhóc có thể làm
bằng các loại cá nhỏ như cá sặc, cá chốt, cá mè, cá lòng tong. Mắm pro ot (bò
ót), ơng pa, pơ ling làm bằng tép mồng, tép bạc và mắm chua pha ơk...
Mỗi năm người Khmer có
riêng 8 lần lễ và đều cử hành ở chùa, gồm: Meákabauchia, lễ Đức Phật cho biết 3
tháng nữa sẽ nhập Niết bàn, khoảng đầu tháng 2 dương lịch; Chôl Ch’năm Thmây,
lễ vào năm mới (Tết), giữa tháng 4; Visakabauchia, lễ Phật đản (nhập niết bàn),
đầu tháng 5; Chôl Vô Sa, lễ Nhập hạ (các sư sãi ở trong chùa 3 tháng, không ra
ngoài), đầu tháng 7; Phchum Ben hay Đônta, lễ xá tội vong nhân, giữa tháng 9;
Chanh Vô Sa, lễ Xuất hạ (hết thời kỳ nhập hạ) đầu tháng 10; Ok Ang Bok, lễ cúng
trăng, cuối tháng 10; Ka Thanh, lễ dâng y cho sư sãi, từ đầu tháng 10 đến giữa
tháng 11. Trong đó, 3 lễ quan trọng nhất là Chôl Ch’năm Thmây, Đôn Ta, Ok Ang
Bok. Chỉ có lễ Vào năm mới theo sự tích Bà La Môn, các lễ còn lại theo Phật
giáo.
Trong dòng chảy hội nhập,
những di sản văn hóa của đồng bào Khmer ngày càng có sự giao thoa, những yếu tố
văn hóa ngoại lai đang dần xâm nhập đã tác động rất lớn đến nền văn hóa cổ
truyền dân tộc Khmer Tây Nam bộ. Vì vậy, trừ các dịp lễ tết truyền thống, phần
lớn đồng bào Khmer sử dụng ngôn ngữ, trang phục, ẩm thực… như người Kinh, một
bộ phận đồng bào Khmer, nhất là giới trẻ dường như đang dần “lãng quên” bản sắc
văn hóa dân tộc, rất ít khi sử dụng trang phục truyền thống, ngôn ngữ của dân
tộc mình.
Để bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa của đồng bào Khmer, các cấp, các ngành cần tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Bởi,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer không chỉ làm phong phú thêm
nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là vũ khí sắc bén đánh
tan âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Giúp mọi người xóa bỏ
tư tưởng mặc cảm, tự ti, thay đổi nhận thức, phải biết trân trọng và tự hào về
dân tộc mình.
Đồng thời đẩy mạnh đào tạo
nhân lực nòng cốt trong công tác bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc Khmer, đề
cao vai trò của các sư sãi, nghệ nhân, người có uy tín trong cộng đồng, bồi
dưỡng, tập huấn, hỗ trợ công tác truyền dạy và phát huy các giá trị văn hóa,
nghệ thuật truyền thống dân tộc của cộng đồng, xã hội hóa các hoạt động văn
hóa, thể thao… để từ đó nâng cao ý thức của đồng bào trong việc bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa truyền thống.
Cùng với đó gắn bảo tồn,
phát triển văn hóa dân tộc Khmer với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo mối
quan hệ hài hòa giữa phát triển văn hóa và kinh tế; hài hòa giữa bảo tồn, phát
huy và phát triển. Chú trọng xây dựng cơ chế chính sách đặc thù cho việc bảo
tồn và nâng cao đời sống văn hóa cho đồng bào Khmer; đầu tư kinh phí để sưu tầm
những giá trị văn hóa có nguy cơ mai một, hỗ trợ kinh phí cho các nghệ nhân mở
lớp truyền dạy cho lớp trẻ về nghệ thuật, đưa chương trình dạy song ngữ (tiếng
Việt - tiếng Khmer) để góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.